Cách đây 112 năm, vào ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã lên tàu Latouche - Tréville, rời bến cảng Nhà Rồng, khởi đầu một cuộc hành trình tìm đường cứu nước kéo dài suốt 30 năm, để rồi sau đó đã mang về ánh sáng tự do cho dân tộc. “Hành trình của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình vĩ đại để tìm đường, mở đường và dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Mỗi bước đi của Người trong hành trình ấy đều gắn liền với những quyết định trọng đại, những mốc son lịch sử của cách mạng Việt Nam…”.
“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi”!
Sinh ra trong tình cảnh nước mất, nhà tan; Nhân dân chịu hai tầng áp bức, bóc lột; Những cuộc nổi dậy, các trào lưu yêu nước, các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục nhưng đều thất bại, hoặc chìm trong biển máu hoặc dần đi đến thoái trào… Tất cả hiện trạng ấy đã đặt ra cho lịch sử một câu hỏi lớn về con đường đấu tranh đúng đắn nhất, phù hợp nhất với dân tộc, với bối cảnh Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của thực dân và phong kiến tay sai, nỗi thống khổ của nhân dân lao động, và cũng thấm thía hơn ai hết cái tình cảnh trớ trêu ấy; hơn nữa, lại mang trong mình trái tim yêu nước, thương nòi thiết tha bậc nhất, người thanh niên Nguyễn Tất Thành chưa khi nào thôi trăn trở, thôi nung nấu ý định tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Vậy nên, với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ và đặc biệt là với mong ước tột cùng là “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”, ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành dưới tên gọi Văn Ba, làm phụ bếp trên con tàu Latouche - Tréville của Pháp đã rời bến cảng Sài Gòn bắt đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Ngày 6-7-1911, con tàu cập cảng Marseille, Pháp, từ đây mở ra chương khởi đầu trên hành trình tìm kiếm con đường đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi họa ngoại xâm của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Ngày 5/6/1911, từ bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước (Nguồn: TTXVN).
Khi đánh giá về sự kiện lịch sử này, các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng đây là “một sự đổi mới đầy dũng cảm” và chỉ có lòng yêu nước mãnh liệt, ý chí kiên định về giải phóng dân tộc, giải phóng Nhân dân khỏi cảnh áp bức, lầm than và lòng quả cảm mới đưa Nguyễn Tất Thành tới một lựa chọn dứt khoát, khác biệt mọi người. Chuyến đi là một quyết định mang tính lịch sử, một sự kiện mới rất đặc biệt chưa từng xảy ra. Điểm đặc biệt của chuyến đi lịch sử này, trước hết nằm ở “định hướng đi”: trước những cách thức cũ, hướng đi cũ, sang phương Đông hay lên phía Bắc mà các bậc cha anh đã chọn đều không mang lại kết quả hay thắng lợi cuối cùng; thì việc lựa chọn sang phương Tây mà trực tiếp là sang Pháp đã “phản ánh một tư duy vượt trội, rõ ràng, mạnh bạo, dám đi tới tận nơi phát sinh của vấn đề để tìm cách giải quyết vấn đề. Đó là sự khác biệt sâu sắc trong định hướng ra đi của Nguyễn Tất Thành với các thế hệ cha anh đi trước”.
“Người đi tìm hình của nước”
“Cuộc hành trình đời người” kéo dài suốt 3 thập kỷ (1911-1941) đã đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc qua nhiều quốc gia, để vừa lao động kiếm sống, vừa không ngừng quan sát, tìm hiểu, chiêm nghiệm và nhận thức thực tiễn.
Trong vòng 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã in dấu trên nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt, Người đã dừng chân khá lâu ở Mỹ, Anh và Pháp. Người hòa mình vào cuộc sống của những người lao động, làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động, như: phụ bếp, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh, làm vườn, vẽ thuê...
30 năm - đó là một hành trình dài với biết bao gian khổ, thử thách mà Người đã trải qua với mục đích thiêng liêng, cao cả: “Tìm hình của Nước”. Hình của nước là “Thế đi đứng của toàn dân tộc”; là độc lập, tự do, là áo cơm, hạnh phúc của nhân dân. Lý tưởng ấy vượt lên tất cả những liên tưởng thông thường về không gian địa lý. Lý tưởng ấy cũng không phải là những mơ tưởng siêu hình trong sương khói xa xôi mà hiện hữu cụ thể, làm nên giá trị đời sống con người. Con đường của Hồ Chí Minh là con đường của chủ nghĩa nhân văn cao cả, phổ quát, hướng đến những quyền lợi căn bản mà tạo hóa đã ban cho tất cả mọi người trên toàn thế giới (như trong "Tuyên ngôn Độc lập" mà Người đã nhấn mạnh). Nhưng đó là một con đường chông gai, trải qua “lửa đỏ và nước lạnh”.
Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Người. Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Versailles yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tuy bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa; đồng thời cũng đem lại cho Người một nhận thức là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức của chính mình.
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, tháng 12-1920.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin qua bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Luận cương của Lênin đến với Nguyễn Ái Quốc như một luồng ánh sáng mới soi rõ thêm con đường cứu nước mà người thanh niên yêu nước đang tìm kiếm. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Bác nói: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đến khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!"
Với lập trường yêu nước đúng đắn, Người vạch ra chân lý: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Và “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Kết luận này khẳng định sự chuyển biến sâu sắc trong tư duy của Nguyễn Ái Quốc, từ người yêu nước chân chính trở thành người cộng sản - người đảng viên cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh Niên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng. Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ thông qua việc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô...
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Người, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác định.
Đầu năm 1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng phù hợp với sự thay đổi mau lẹ của tình hình quốc tế và trong nước, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tổ chức vận động, tập hợp lực lượng toàn dân tộc; thành lập Mặt trận Việt Minh; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa, tạo nên các cao trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ trên phạm vi cả nước
Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tiếp đó, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác - giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tích cực hội nhập quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người mang ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Những thắng lợi đó là minh chứng rõ ràng nhất về những giá trị to lớn, soi sáng, dẫn đường của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Bởi vậy, hành trình ra đi tìm đường cứu nước suốt 30 năm là minh chứng sống động về con người hành động hay triết lý hành động Hồ Chí Minh. Đó là chủ nghĩa yêu nước, là tinh thần dân tộc, là khát khao độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân…Đồng thời, thể hiện tầm vóc trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta trong việc vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của Người không chỉ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà trong cả sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Có thể khẳng định, “hành trình của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình vĩ đại để tìm đường, mở đường và dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Mỗi bước đi của Người trong hành trình ấy đều gắn liền với những quyết định trọng đại, những mốc son lịch sử của cách mạng Việt Nam”. Đó là hành trình tìm lại “hình” của nước, hay tìm lại “sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai” - tìm lại truyền thống lịch sử - văn hóa hào hùng để làm điểm tựa cho một tương lai rạng rỡ Việt Nam; cũng đồng thời là khẳng định quyền tự quyết dân tộc để vẽ lại hình chữ S tươi mới trên bản đồ nhân loại. Đó cũng chính là “thế đi đứng”, là “cách vin hoa” mà mỗi người Việt Nam hôm nay luôn tự hào, vốn được đặt nền móng từ cách đây 112 năm, khi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bước chân đầu tiên từ bến Nhà Rồng.